Trà ngon phải có Ấm Pha Trà Tử Sa
Nghệ thuật ấm Tử Sa là một trong 4 quốc bảo của Trung Quốc, vì vậy người sành trà không thể không có bộ ấm tử sa để thưởng ngoạn. Loại ấm pha trà Tử Sa nổi tiếng với những huyền thoại như pha trà không cần trà, lưu trà 5 ngày không hỏng… luôn luôn mê hoặc khách thưởng trà.
Người ta chưa khẳng định được loại trà cụ này ra đời lúc nào nhưng điều chắc chắn nó tồn tại từ rất lâu, song song với đời sống của trà. Ấm pha trà chỉ ra đời từ thời Minh, bởi vậy ấm Tử Sa không thể có trước giai đoạn ấy, tuy nhiên từ thời Đường – Tống, nghệ thuật uống trà đã rất thịnh hành và người uống trà đương thời dùng oản (bát) và trản (bát nông) để thưởng trà, đấu trà.
Truyền thuyết còn đến nay ở huyện Vô Tích – Hằng Châu đều cho rằng chính Phạm Lãi, người tình của nàng Tây Thi, là người đã chế tạo ra những ấm chiếc Tử Sa đầu tiên từ 2000 năm trước. Công lao dạy dân làm trà cụ, nuôi cá, nuôi ngọc trai, canh tác nông nghiệp đã được người dân tôn ông làm “Thần tài – Chu công” ở Vô Tích và thờ cúng ông ngày 2 và 16 âm lịch hàng tháng.
Một truyền thuyết mang tính huyền hoặc khác nhằm tôn vinh ấm Tử Sa kể về câu chuyện mua phú quý khi một nhà sư kỳ dị đi ngang qua thôn Nghi Hưng rao lớn “ai mua phú quý không?”. Chả ai quan tâm đến lời rao ấy ngoại trừ một ông già nghèo muốn thử vận may. Nhà sư dẫn ông lên vùng núi Tinh Sơn, đá chân xuống đất rồi biến mất. Ông lão bèn đào sâu xuống tìm “phú quý” và ông gặp lớp đất ngũ sắc, đó chính là tử sa.
Dã sử về chùa Kim Sa ở Nghi Hưng lại khẳng định một vị hòa thượng trụ trì chùa tên Ngô Nghĩa Sơn thời Minh là người đầu tiên chế tạo ra độc ẩm quý hiếm từ đất tử sa để dùng.
Nghệ nhân có công nâng việc chế tác ấm Tử Sa lên mức nghệ thuật, lưu danh sử sách là Cung Xuân. Cung Xuân đã sáng tạo cách dùng muỗng đong trà làm cốt rồi lấy tử sa đắp lên nặn thành ấm trà… Cuối cùng, ông đã làm được nhiều ấm trà đẹp, mở ra những trang đầu cho lịch sử ấm Tử Sa Nghi Hưng. Do có biệt tài bẩm sinh và am tường trà nghệ, ấm trà do Cung Xuân chế tạo được người đời ca tụng bởi cái “thần” của ấm, bởi ông khéo léo dụng được nét mờ ảo của chất tử sa tạo cảm giác cho người thưởng lãm thấy ấm Cung Xuân như một cổ khí linh thiêng. Con cháu Cung Xuân đã kế tục cho ra đời nhiều loại ấm tử sa lưu truyền hậu thế như những sản vật đặc trưng của Vô Tích. Cuộc bể dâu lịch sử Trung Hoa làm nhà Minh sụp đổ vào giữa thế kỷ 17, rất nhiều trung thần không cam chịu hợp tác với nhà Thanh đã rời bỏ Trung Nguyên chạy xuống các nước vùng Đông Nam Á. Theo chân họ, ấm Tử Sa Cung Xuân cũng vượt muôn trùng sóng biển xuống phía nam và hiện còn lưu giữ ở Singapore. Ấm tử sa được coi là một trong 4 quốc bảo Trung Hoa trong chiến lược bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống Trung Quốc (gồm kinh kịch, quốc họa thủy mạc, ấm tử sa, lụa Tô Châu).
Tiếp theo Cung Xuân vào những đời sau có Thời Đại Bân đã lãng mạn hóa loại sản phẩm tưởng như vô tri vô giác này. Người đời tôn vinh Cung Xuân và Thời Đại Bân lên hàng danh gia chế tác tử sa. Tiếp theo họ còn các đại gia khác: Đồng Hàn, Triệu Lương, Viên Tích .. đã đưa nghệ thuật ấm tử sa Nghi Hưng vang danh Trung Quốc và đã đạt tới thời kỳ cực thịnh trong suốt hai thế kỷ 17 và 18.
Nguyên liệu tử sa
Khác với những đồ gốm khác, tử sa đòi hỏi một quy trình công nghệ công phu hơn nhiều. Cả vùng Vô Tích, nói rộng ra trên toàn cõi Trung Hoa, duy nhất vùng Tinh Sơn có thổ khoáng tử sa. Vùng đất này như trong huyền thoại kể, đào xuống sẽ gặp đất tử sa 5 màu: đen, đỏ, tím, xanh, vàng… Màu vàng (thạch hoàng) khi nung lên cho màu đỏ (chu sa), đất xanh lam qua lửa chuyển thành nâu đậm “gan gà”, đất màu vàng nhạt hỏa biến sang thành lam sa .. Nguyên liệu tử sa hoàn toàn phải khai thác thủ công bằng tay, không dùng chất nổ để giữ tinh khí cho đất; bởi trong sa khoáng tử sa có rất nhiều lỗ nhỏ li ti, khi bị nhiễm khói thuốc sẽ không tẩy sạch được ảnh hưởng đến chất lượng trà. Các nghệ nhân còn lưu truyền cái “ngón bí quyết” trộn đất theo những tỷ lệ riêng tạo ra các màu đặc biệt: huyền sa, tử sa (ánh tím) là những công thức gia truyền.
Tử sa được luyện và trộn với sa khoáng trầm tích khai thác ở vùng Tinh Sơn xay nhuyễn. Tỷ lệ pha trộn bột đá trầm tích chính là bí quyết và làm thất vọng biết bao kẻ “đạo chích” theo nghiệp làm giả ấm tử sa. Bột trầm tích này mang đến cho ấm tử sa 23 nguyên tố vi lượng trong đó có sắt nên khi dùng trà bằng ấm tử sa vô hình chung ta đã dùng một loại nước trà khoáng hóa rất có lợi cho sức khỏe. Cũng nhờ yếu tố này, ấm tử sa thứ thiệt không bị “chân giả” lẫn lộn bởi nó luôn có tiếng thanh trong khi được gõ vào. Âm thanh này rất đặc trưng mà các loại ấm gốm khác không thể nào có được. Bột trầm tích trộn bên trong làm cho ấm tử sa xốp thông thoáng với bên ngoài, vậy người đời truyền tụng kiệt tác “tử sa” có thể ngắm thấy mức trà trong ấm và trà ủ trong ấm không bị biến chất trong suốt 5 – 6 ngày. Ấm tử sa được nung trong lò nhiệt độ rất cao trên 1.200 0C làm cho sản phẩm chắc bền hơn hẳn những ấm gốm dùng thông thường chịu đựng tốt trước mọi biến đổi nhiệt độ và có thể đun trực tiếp trên bếp lò.
Nghệ thuật chế tác ấm tử sa
Tuyệt tác ấm tử sa là các tác phẩm điêu khắc hoàn mỹ, nó không chỉ có công năng sử dụng như một loại trà cụ mà còn là những vật trưng bày, sưu tập và gia bảo. Bởi vậy ngoài dòng thương phẩm sản xuất hàng loạt, người ta chú trọng đến dòng tử sa nghệ thuật mà các nghệ nhân mài công, vắt óc nghiền ngẫm chế tạo ra chúng. “Ấm nào, nắp ấy” là một nguyên tắc bất di bất dịch cho mỗi bộ ấm tử sa thứ thiệt, nghệ nhân tạo ra nó có một độ chính xác đến kinh ngạc không chênh một sợi tóc. Bởi vậy trà nhân có thể ung dung khi rót ấm tử sa ở góc nghiêng 900 mà không hề sợ rơi nắp ấm. Ấy cũng là vì sao không bao giờ nắp ấm tử sa bị “xiềng xích” bởi sợi dây bảo vệ của chủ nhân. Miệng vòi, mặt thoáng ấm phải luôn trên mặt phẳng, khi chế đầy nước, trà không bị tràn ra vòi. Tạo tác vòi ấm là một bí quyết, vùng đất “dụng võ” cho các nghệ nhân thi thố tài năng. Tạo các dòng nước trà xoáy vặn lung linh, dòng nước kép nhị tuyền .. và khi ngưng rót, nước trà không lem trên miệng vòi luôn là những tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe phải đạt được của những tác phẩm muốn lưu danh.
Hình dáng ấm Tử Sa thường có 3 dạng: loại hình kỷ hà theo nguyên tắc đối xứng cân đối như tròn, vuông, lục giác… Loại hình mô phỏng thiên nhiên như trái phật thủ, chiếc lá hoặc hình sừng tê giác .. Loại thứ ba kết hợp cả hai nguyên tắc trên để tạo dáng vừa cân xứng vừa thiên nhiên như trái bí ngô, trái đào tiên, đóa hoa sen…
Nghệ thuật trang trí ấm tử sa thấm đẫm triết lý sâu xa bắt nguồn từ những chuẩn mực về luân lý, đạo đức cũng như ước vọng của cuộc sống. Đôi khi là những tích lịch sử răn dạy trung hiếu tiết nghĩa, đôi khi là câu chuyện dân gian đầy tính nhân văn. Cảnh đẹp sơn hà cẩm tú cũng là những mảng đề tài gợi cảm xúc sáng tạo cho các nghệ nhân
Chăm sóc ấm Tử Sa
Ấm mới dùng pha Trà, trước hết phải có quyết định ấm nào pha trà gì, trà có mùi thơm hay pha trà có vị đậm. Nếu có điều kiện mỗi ấm nên pha một loại trà nhất định. Ấm mới cần phải rửa sạch mùi đất, dùng vải thô hoặc giấy nhám nhuyễn lau thật kỹ cả bên trong và ngoài ấm.
Sau đó để ấm mới vào trong nồi nước sạch, đun nhỏ lửa, đến khi nước sắp sôi thì bỏ trà vào nước đun tiếp. Sau khi nước sôi già (10 phút) thì vớt lá trà ra đun tiếp thêm 5 – 10 phút rồi lấy ấm ra. Nên nhớ rằng lúc nào nước cũng phải ngập ấm. Khi đun xong vớt ấm ra để phơi ở nơi khô và thoáng cho ấm khô tự nhiên, sau đó đem ấm ra dùng.
Mỗi lần pha trà xong thì phải bỏ hết bã trà cũ, súc sạch nước trà cũ còn đọng lại trong ấm, mỗi khi pha trà nên tráng lại ấm bằng nước sôi.
Khi rửa ấm nên dùng tay, tuyệt đối không rửa ấm bằng xà phòng hay nước rửa chén. Rửa xong lấy vải bông hoặc vải mềm lau chùi sạch sẽ, sau khi phơi ở nơi thoáng mát, thoáng khí để ấm khô tự nhiên. Thường xuyên lau chùi ấm Tử Sa dùng tay xoa và miết lên ấm sau một thời gian khiến cho ấm trở nên sáng bóng và cái ấm sẽ trở nên thân thiết và gần gũi với người dùng.
Tuyệt nhiên không nên dưỡng ấm bằng cách để bã trà lại trong ấm sau khi dùng trà, nước trà và bã trà cũ sẽ làm hỏng ấm, ấm Tử Sa luôn hút hơi của trà do vậy mùi bã trà cũ sẽ làm hại ấm