Quy trình sản xuất chè an toàn theo tiêu chuẩn GMP

QUI TRÌNH SẢN XUẤT CHÈ AN TOÀN THEO TIÊU CHUẨN GMP

I. Mục tiêu: Cung cấp cho người sản xuất chè những kiến thức cơ bản nhất để đảm bảo cho sản xuất chè dưới những điều kiện hợp vệ sinh, đồng thời ngăn chặn được các nguy cơ rủi ro từ vi sinh vật, hoá chất hoặc điều kiện tự nhiên và thiết lập các công đoạn cho việc kiểm soát dịch hại làm tăng năng suất, chất lượng chè, sản phẩm an toàn, nâng cao độ phì đất và bảo vệ môi trường sinh thái.II. Yêu cầu.a) Kiểm tra một cách hệ thống tất cả các công việc quản lý, sản xuất chè để xác định được những nguy cơ rủi ro tiềm tàng có thể sẽ xảy đến.

b) Cần thực hiện một quy trình sản xuất chè an toàn để kiểm soát các rủi ro.

c) Xây dựng được quy trình kiểm soát thành tư liệu ban hành.

d) Tuân theo chương trình an toàn thực phẩm Quốc gia.

e) Thường xuyên kiểm tra quy trình nhất là một lần trong năm để đảm bảo tính đầy đủ của nó.

g) Toàn bộ các kỹ thuật tiên tiến đang áp dụng trong sản xuất chè an toàn ở Việt Nam và tài liệu nước ngoài có thể áp dụng được sẽ được tổng hợp vào qui trình.

III. Phạm vi áp dụng

Tài liệu này hướng dẫn kiểm soát sản xuất chè an toàn từ khâu giống, canh tác đến thu hái và bảo quản nguyên liệu chè búp tươi. Áp dụng cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh chè.

IV. Nội dung GMP sản xuất chè an toàn

1. Chọn địa điểm

– Tuỳ theo điều kiện cụ thể lựa chọn quy mô hợp lý cho vùng sản xuất.

-Khu sản xuất tập trung cần có: Độ dốc bình quân đồi không quá 250, nếu độ dốc qúa cao khó khăn cho việc trồng trọt, thu hái và thực hiện biện pháp quản lý tổng hợp, dồi dào nước ngầm, mùa mưa thoát nước nhanh, không bị úng.

 

– Nguồn nước: Xây dựng được các hồ đập giữ nguồn nước mặt, tạo nguồn nước tưới và giữ ẩm trong mùa khô. Nguồn nước và không khí không bị ô nhiễm, cÇnxem xét  nguồn và khối lượng n­íc sử dụng, cùng với việc ngăn ngừa sự ô nhiễm tiềm ẩn từ những dòng chảy, ống cống của nhà máy và khí thoát tõ èng khãinhà máy.

2. Khí hậu vùng chè.

– Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm: 18 – 25 0C, ở khoảng nhiệt độ này cây chè sinh trưởng khoẻ, tính chống chịu tốt, thuận lợi quản lý cây trồng

tổng hợp.

– Độ ẩm không khí trung bình năm: Trên 80%.

– Lượng mưa trung bình hàng năm: Trên 1200 mm.

3. Độ phì nhiêu của đất

– Hàm lượng chất hữu cơ trong đất là yếu tố quan trọng duy trì độ phì nhiêu  và kết cấu của đất. Đảm bảo đủ lượng hữu cơ trong đất sẽ ngăn chặn xói mòn, làm cho đất luôn tơi xốp, chất dinh dưỡng càng ngày càng tăng, trên cơ sở đó cây chè sử dụng nước có hiệu quả, vì thế hạn đối với chè hầu như không xảy ra. Đất chè cần được duy trì hµm l­îng mïn tæng sè 2,0% trë lªn.

– Chất hữu cơ trong đất chè được duy trì trước tiên từ cành lá chè đốn giữ lại hàng năm, tiếp sau là được làm giàu hơn bằng nguồn bổ sung qua việc tủ gốc cho chè từ thân lá thực vật không bị nhiễm bẩn, lá rụng, cành tỉa của các loại cây che bóng, cây trồng xen thời kỳ chè KTCB, tốt nhất là các loại cây có hàm lượng dinh dưỡng cao.

– Giữ lại cành lá chè đốn (nương chè năng suất 10 tấn/ha có thể cho lượng cành lá đốn ….. tấn/ha), tránh việc dùng cành lá chè đốn làm củi đốt.

– Trồng cây che bóng để bỏ sung nguồn lá rụng và cắt tỉa hàng năm của cây che bóng (tràm lá nhọn, muồng Cassia (muồng đen)…)

– . Tủ gốc bằng tế guột, rơm rạ, trồng cỏ Ghi nê…lượng tủ 20 tấn/ha, 3-5 năm tủ 1 lần.

–          Thời kỳ cây chè mới trồng cần đặc biệt lưu ý trồng xen cây họ đậu (lạc, đỗ…), cây có khả năng cải tạo đất cho lượng chất xanh lớn (cốt khí, tràm lá nhọn…), cây cốt khí trồng xen có thể cho 30-40 tấn/ha nếu được đầu tư chăm sóc tốt.

– Đối với phát triển vùng chè mới cần có kế hoạch cải tạo đất trước khi trồng chè 2 năm từ cây cốt khí, cỏ Ghi nê, lạc dại  và các loại rau đậu)

– Chè sinh trưởng tốt  trong khoảng  pH từ 4 – 5,5, cho nên trong quá trình canh tác luôn kiểm tra pH đất để kịp thời điều chỉnh. Nếu pH cao cần sử dụng phân bón có chứa lưu huỳnh. Nếu đất trở nên quá chua pH < 4 có thể sử dụng vôi vào thời gian đốn lượng 2-3 tấn/ha. Sử dụng có chất lượng tốt là vôi dolomitic (vôi có chứa magiê và các bonat).

– Không trồng chè trên những vùng đất có pH >5.5. Đất có pH cao thì sự sinh trưởng của cây trở rất kém, lá cây bị héo và rễ cây bị sùi.

– Có thể chẩn đoán pH thích hợp trong quá trình canh tác qua quan sát sinh trưởng của cây và sự có mặt của các các cây chỉ thị. Nếu cây chè sinh trưởng khoẻ mạnh và có mặt các cây họ xim, mua ở xung quanh vườn chè thì đó là độ pH thích hợp.

 Xói mòn đất chè

Xói mòn đất có thể xảy ra rất mạnh nếu không có giải pháp ngăn chặn hữu hiệu, điều quan trọng nhất là phải duy trì độ che phủ trên mặt đất bằng cây trồng lâu năm, và cây chè được coi là cây chống xói mòn hữu hiệu đối với đất dốc. Tuy vậy, mưa lớn vẫn có thể dẫn đến xói mòn đất ở vùng trồng chè, nhất là ở những vị trí không có cây chè (đường đi, khu giao nhau của các con đường, các khoảng trống khác…), thời gian chè chuẩn bị trồng mới và thời kỳ chè mới trồng chưa khép kín tán.

 

Cần lưu ý là ở độ pHkcl từ 4,5 – 5,5, chỉ một giai đoạn ngắn mặt đất không được bao phủ bởi chất hữu cơ, nước có thể làm bí đất và những thực vật kém phát triển có thể làm hỏng cấu trúc đất.

 Khống chế xói mòn đất:

Nhất thiết phải trồng chè theo những đường đồng mức, tạo độ nghiêng ra một cách đáng kể, đặc biệt những vùng có độ dốc cao >20 cần trồng cỏ Ghi nê hàng đơn, hoặc dứa Cayen, cứ sau 10 hàng chè có thể trồng phụ 1 hàng ở đường đồng mức. Cần đào những cái rãnh phù sa (toàn bộ hoặc cục bộ) ở bất cứ độ dốc nào để cản nước chảy và giữ nước. Thiết kế và đào những rãnh phù  sa phải được để ý và suy xét tới sự an toàn trong quá trình chăm sóc và thu hái.

– Ở tất cả các các vị trí sự xói mòn đất cục bộ xảy ra khốc liệt, cần phải thực hiện sự ngăn cản bằng tất các biện pháp hữu hiệu nhất (trồng cỏ, đào rãnh ngăn, trồng cây to chắn phía trên v.v

– Phải chú ý cẩn thận đến việc xây dựng những con mương thoát nước, những con mương này cần cắt ngang dòng chảy, chặn các dòng chảy, làm lưu lượng nước chảy chậm kết quả là làm giảm sự xói mòn. Nên trồng  loại cỏ thích hợp dọc theo những con mương để cản nược và xói mòn đất trước khi nước chảy vào mương.

– Che phủ đất: Trên vùng chè chuẩn bị trồng mới, trước khi trồng chè cây che phủ đất được gieo trồng càng sớm càng tốt ngay sau khi làm đất tối thiểu. Lựa chọn các cây trồng che phủ thích hợp, cây họ đậu, cây cỏ có thể dùng làm thức ăn gia súc, cốt khí, tràm lá nhọn…Vườn chè mới trồng cần được trồng xen cây họ đậu và tủ gốc bằng rơm rạ, hoặc cỏ khô. Ngoài ra, kỹ thuật trồng chè mật độ dày, hàng kép đối với các giống hạn chế mở rộng tán sẽ làm giảm xói mòn rất có ý nghĩa.

4. Giống chè

Sử dụng các giống chè mới có năng suất, chất lượng cao và khả năng chống chịu tốt với cơ cấu 50 %, giống địa phương 50 %. Các giống LDP1, LDP2, PH1, Shan Chất Tiền, Shan Tham Vè, Phúc Vân Tiên, Kim Tuyên cho vùng thấp, các giống Shan Chất Tiền, Shan Tham Vè, Ôlong Thanh Tâm, Kim Tuyên cho vùng Cao. Thường xuyên trồng thử nghiệm các giống chè mới ở các vùng có điều kiện khí hậu và đất đai khác nhau để có các giống hiệu quả hơn bổ sung vào cơ cấu giống của vùng.

5. Chế độ dinh dưỡng.

Hiện nay, để trồng chè có hiệu quả kinh tế, đòi hỏi phải sử dụng phân bón trên tất cả các loại đất, về nguyên tắc toàn bộ chất dinh dưỡng đưa vào, kể cả các khoáng vật từ đất và chất hữu cơ, nên tương đương lượng chất dinh dưỡng cây đã lấy đi trong quá trình thu hoạch sản phẩm, cần phải tính toán cả lượng được tổng hợp từ rễ của cây trồng che phủ đất hoặc trồng xen, lượng tồn tại trong cơ thể của cây chè. Để sử dụng hiệu quả, tiết kiệm phân bón cần phải giảm hao hụt dinh dưỡng trong các  trường  hợp: Dòng nước chảy cuốn đi khi mưa, khi tưới nước, sự bốc hơi nước và trong quá trình canh tác. Hết sức chú ý sự mất đạm (NO3 ) và lân dễ tiêu trên bề mặt, quá trình lắng xuống và sự  xói mòn đất. 

Trong quá trình cân đối đạm (N), việc bón đạm dạng vi sinh, hoặc dưới dạng đạm hữu cơ cần phải được chú ý ở mức cao nhất  kết hợp bổ sung phân vi lượng sẽ luôn làm tăng hiệu quả của việc sử dụng đạm, lân và ka li cũng như các chất dinh dưỡng khác.

Tỷ lệ lấy đi và đưa vào

Để đưa ra lời khuyến cáo tỷ lệ và liều lượng phân bón thích hợp cho các vùng chè cần có sự cân nhắc cẩn thận. Muốn sử dụng dinh dưỡng có hiệu quả cao, đòi hỏi chúng ta phải tính toán liều lượng và  tỷ lệ phối hợp các nguyên tố NPK phù hợp với từng loại đất (đất có tầng canh tác dầy, đất dốc…) và khí hậu thời tiết cụ thể của vùng.

Trong thực tế không phải lúc nào chúng ta cũng có thể phân tích được các yếu tố trong đất để tính toán phân bón cho chè. Do vậy, ánh sáng mặt trời chiếu vào lá chè, tạo ra mầu sắc sẽ là chỉ thị giúp ta nhận biết sự thiếu hụt phân bón:

Lá mầu xanh tối, to, dầy, búp chè mọng nước có thể cho thấy lượng đạm sử dụng đã vượt quá mức (thừa N)

Ngược lại, lá mầu vàng nhạt, nhỏ, búp chè chè nhỏ, cứng có thể cho thấy lượng đạm sử dụng chưa đủ (thiếu N)

Hiện nay, ở các vùng sản xuất chè các tỉnh phía Bắc mức bón phổ biến là 30 kg N/tấn búp, duy trì tỷ lệ bón NPK (3:1:1), khoảng 150 kg N/ha.

Ở một số vùng khác (Bảo Lộc-Lâm Đồng và Mộc Châu-Sơn La có thể đưa vào áp dụng mức phân bón khác (lượng đạm có thể thấp hơn do vùng này đất có hàm lượng mùn cao hơn các vùng chè khác).

Tuy nhiên, có một số vùng do giá búp chè cao, một số hộ đã dùng lượng đạm vô cơ tới 60-70 kgN/1tấn búp, bón không cân đối lên chất lượng chè giảm và sâu bệnh phát sinh mạnh.

Cần lưu ý:

Tỷ lệ và liều lượng bón NPK, hoặc bón chất hữu cỏ cần được xem xét lại một cách thường xuyên trên cơ sở phân tích để tính toán lượng chất dinh dưỡng còn lại trong đất, trong thân lá. Người trồng chè cần phải nhận được các thông số về dinh dưỡng và vấn đề chất hữu cơ đối với sản xuất chè để họ có nhận thức đầy đủ về quản lý dinh dưỡng nương chè, chống lại quan điểm trồng trọt cũ là quảng canh, bóc lột đất hoặc bón phân theo kinh nghiệm. Những thông số về chất hữu cơ có được do giữ lại cành lá chè đốn ở các kiểu đốn hay các chu kỳ đốn, hoặc lượng lá rụng hay tỉa cành từ cây che bóng cần được thông báo cho người sản xuất để họ có thể điều chỉnh tỷ lệ bón NPKhợp lý vào các năm sau. Chẳng hạn, nếu áp dụng chu kỳ đốn 3 năm đối với chè kinh doanh, thì lượng bón lân và kali ở  năm thứ 2 và 3 sau năm đốn đầu tiên ở chu kỳ đốn có thể sẽ giảm hơn những năm trước do lượng lân và kali đã được cung cấp đáng kể từ cành lá chè đốn.

Không nên sử dụng tro (sản phẩm sau khi đốt) của bất kỳ loại cây nào để bón cho chè (bởi vì tro là chất kiềm).

Luôn chú ý tăng cường sử dụng chất hữu cơ, phân xanh, phân vi sinh và   giảm nhu cầu sử dụng phân vô cơ.

Nên sử dụng phân lân dạng rắn (loại trừ những khu vực có độ PH cao) và đặc biệt quan trọng là bón lót cho chè trồng mới (thường sử dụng Supe lân 600 kg/ha). Sử dụng phân lân dạng rắn sẽ cung cấp lượng phospho hoà tan dần dần cho cây chè.

Tăng cường đưa đạm vào từ những loại sinh vật cố định đạm trồng xen canh các loại cây họ đậu khi chè ở thời kỳ kiến thiết cơ bản, hoặc những vùng trồng tiểu bậc thang có thể xen kẽ trồng cây họ đậu.

Không bón phân khoáng trong các tháng mùa khô và lúc trời mưa to, tránh bón phân trong vùng cách dòng sông hoặc mương nước 3-4m.

Hạn chế đến mức tối đa mất mát dinh dưỡng do cỏ dại và các cây trồng xung quanh đồi chè.

 

6. Quản lý dịch hại.

Quản lý dịch hại (IPM) là chìa khoá để duy trì sự điều khiển dịch hại, mục đích là áp dụng các biện pháp canh tác, biện pháp sinh học, biện pháp cơ giới, biện pháp hoá học hoặc những kỹ thuật khác phòng trừ dịch hại để giảm tới mức thấp nhất sử dụng hoá chất diệt côn trùng. IPM là xem xét cẩn thận tất cả các phương pháp có sẵn và kế tiếp để điều khiển dịch hại và đặc biệt chú trọng sử dụng biện pháp sinh học, duy trì cân bằng tự nhiên, điều này ngăn chặn sự phát triển số lượng sâu bệnh không gây thành dịch hại (không bùng phát dịch). Tất nhiên chúng ta cũng có thể sử dụng hoá chất diệt côn trùng và những sự can thiệp khác khi mật độ sâu bệnh hại tới ngưỡng kinh tế. IPM sẽ giảm tối thiểu ảnh hưởng tới sức khoẻ con người và môi trường.

Những tác nhân làm hại cây và bệnh nấm

Ở mỗi vùng chè, người trồng chè cần phải nắm chắc điều kiện đất đai, khí hậu của địa phương, thường xuyên có bệnh nào hay phát sinh (vùng cao thường hay xuất hiện bệnh phồng lá chè, vùng Trung du, vùng chè thấp thường hay xuất hiện bệnh đốm nâu, bệnh tóc đen v.v). Trong mọi trường hợp, đối với bệnh hại chè cần khuyến cáo cáo người dân sử dụng biện pháp canh tác (trồng trọt), hạn chế thấp nhất sử dụng thuốc hoá học.

Ở Viện Nghiên cứu chè Việt Nam đã có mô hình lớn trong 3 năm liên tục không sử dụng thuốc hoá học trừ sâu, trừ vi khuẩn và trừ nấm trên chè kinh doanh (chè trưởng thành). Chè được bón cân đối và đầy đủ phân đa và vi lượng, đạm và lân đuợc cung cấp dưới dạng phân hữu cơ sinh học, cây chè sinh trưởng rất tốt nên các đối tượng gây hại như nhện đỏ, bọ cánh tơ, rầy xanh, rệp thì không cần áp dụng các hoá chất diệt côn trùng.

Hiện nay ở tỉnh Nghệ An, phần lớn các vùng chè sản xuất không sử dụng thuốc trừ sâu hoá học, do ở đây đã thiết lập được một cân bằng sinh thái trong vùng chè rộng lớn.

Việc áp dụng các chất hóa học sẽ giết chết kẻ thù tự nhiên của sâu hại chè (còn gọi là thiên địch, chủ yếu là các loại nhện ăn mồi) và từ đó dịch hại phát triển. Do đó thuốc hoá học thường chỉ sử dụng trong trường hợp không thể tránh (dịch hại bùng phát) và phải nằm trong một chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM).

Yêu cầu chìa khoá của một hệ thống IPM bao gồm:

–  Không sử dụng thuốc hoá học để phun phòng sâu bệnh

– Phòng trừ bằng những biện pháp canh tác (trồng trọt) thông thường, như trồng giống khoẻ, chăm sóc tốt và duy trì việc trồng cây che bóng, cây trồng xen, duy trì che phủ đất.

– Mở rộng việc tìm hiểu về diễn biến của các đối tượng gây hại chính, tìm hiểu về sự phát triển của thiên địch.

– Thiết lập các ngưỡng gây hại của các tác nhân gây hại chính (rầy xanh, nhện đỏ bọ cánh tơ, bọ xít muỗi), dựa vào mức thiệt hại kinh tế ( rầy xanh 5 con/khay, Bọ cánh tơ 1-2 con/búp, Nhện đỏ 5 con/lá, Bọ xít muỗi bắt đầu thấy lác đác chòm lá có vết kim châm màu đen 5-8% búp bị hại)

– Trong trường hợp sử dụng thuốc hoá học trừ dịch hại là cần thiết, thì tính chọn lọc của thuốc là quan trọng để giảm bớt sự mất cân bằng sinh thái, an toàn sản phẩm và đảm bảo sự an toàn cho người lao động.

– Sử dụng thuốc trừ dịch hại (Thuốc BVTV):

Người sử dụng thuốc phải được được huấn luyện (đào tạo) về các nguyên tắc sử dụng thuốc BVTV (phun đúng thuốc, phun đúng lúc, đúng nồng độ, đúng liều lượng, phun đúng địa điểm, chỗ nào chưa cần phun thì không được phun) và  những thiết bị phun, quần áo bảo hộ lao động v.v

Thuốc BVTV khi sử dụng cần phải được kiểm tra, giám sát chặt chẽ đúng với danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên chè của Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt.

Thuốc BVTV cần phải được chọn lọc cao dựa trên mức độ ảnh hưởng của nó tới hệ sinh thái, mức độ an toàn của sản phẩm, giảm sự nguy hiểm tới người lao động và môi trường.

Việc quyết định mua thuốc hoá học cần phải nắm được đặc điểm của thuốc (những thuốc có giá thấp, có thể chứa đựng chất độc cao) và số lượng mua không nên vượt quá số lượng cần, cố gắng sử dụng được hết trước hạn sử dụng của nó.

Thuốc BVTV cần được cất giữ cẩn thận, an toàn và đúng phương thức, bao  gói thuốc phải có hướng dẫn thật cụ thể, đưa ra những trường hợp cấm được sử dụng và cách xử lý trong những trường hợp có sự cố xẩy ra, định nghĩa rõ ràng và có hiệu lực đối với từng loại thuốc.

Dụng cụ bơm thuốc cần được sắp đặt và bảo quản cẩn thận tránh gây ô nhiễm.

Những dụng cụ cá nhân phải được rửa sạch sẽ sau khi sử dụng thuốc BVTV, tất cả quần áo và thiết bị sử dụng phải được rửa sạch ở một vị trí phù hợp.

Phải có thói quen kiểm tra sức khoẻ cho người lao động và phải có biện pháp sơ cứu tại chỗ khi người lao động bị thuốc xâm nhập.

Một chương trìnhIPM phải đạt được các yêu cầu; đảm bảo cho sản phẩm chè vừa an toàn, vừa chất lượng, bảo vệ được thiên địch, bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ sức khoẻ con người. Muốn vậy, một chương trình ỤPM phải được triển khai một cách nghiêm túc, trong đó các biện pháp: §ốn đúng thời vụ; hái đúng kỹ thuật; bón phân hợp lý (sử dụng hữu cơ, phân vi sinh, phân hữu cở sinh học, phân có nguồn gốc hữu cơ kết hợp với tủ gốc và tưới nước để cây chè sinh trưởng khoẻ, có khả năng chống chịu tốt); điều tra định kỳ để sớm xác định được đối tượng sâu hại, thời điểm trừ sâu có hiệu quả và điều quan trọng hơn là khi mật độ sâu chưa đến mức phun thuốc thì không sử dụng thuốc hoá học; chỉ dùng thuốc khi số lượng sâu hại vượt quá ngưỡng phòng trừ, khi mật độ sâu hại chưa đến mức bùng phát dịch chỉ  nên dùng thuốc có nguồn gốc thẩo mộc (hiện nay có một số thuốc thảo mộc mới trừ sâu rất có hiệu quả như SH01, Sukupi…., khi bùng phát dịch hại cần phun thuốc hoá học trong danh mục cho phép trên cây chè của Bộ NN&PTNT, Nhện đỏ nên dùng Comite, Rầy xanh dùng: Actara, Acelant…,Cánh tơ dùng Agbamex, Confido.. Nên sử dụng máy động cơ phun dung dịch thuốc hoá học (600lít – 1000lít/ha) với chè sản xuất kinh doanh. Bảo đảm thời gian cách ly sau phun thuốc tối thiểu là 10 ngày, một năm phun thuốc hoá học không quá 6 lần.

Tại Viện Nghiên cứu Chè, nguyên liệu chè được sản xuất theo qui trình trên dư lượng thuốc BVTV trên sản phẩm đều thấp so với tiêu chuẩn qui định của Bộ Y Tế, năng suát và chất lượng chè tăng, thiên địch trên vườn chè phát triển, nâng cao được độ phì đất, cải thiện môi trường sinh thái.

Phòng trừ cỏ dại:

– Đặc biệt chú trọng biện pháp tủ gốc hoặc trồng cây phủ đất để khống chế cỏ dại.

– Chấp nhận chi phí cao để có được các thiết bị làm cỏ bằng máy móc.

– Việc nhổ cỏ bằng tay được quản lý giới thiệu một cách thích hợp để cố gắng không sử dụng thuốc hoá học diệt cỏ.

– Trong trường hợp không thể tránh được dùng thuốc diệt cỏ thì cần lưu ý:

Thuốc diệt cỏ phải đảm bảo an toàn về sinh thái học, sức khoẻ con người và môi trường.

Để phòng trừ cỏ dại đạt hiệu quả và giảm bớt sự nguy hiểm do phát sinh tính kháng thuốc diệt cỏ, thì một chương trình thay đổi thành phần của thuốc một cách tích cực phải thường xuyên được đưa ra giới thiệu.

Các loại thuốc diệt cỏ sử dụng cần phải giảm đến mức tối thiểu chất hoá học giải phóng ra và tồn đọng trong đất.

7. Tính đa dạng sinh học bên trong và xung quanh vùng chè

Duy trì đa dạng nguồn gen di truyền trong trồng trọt là rất có ý nghĩa do nhu cầu đòi hỏi của con người trong tương lai luôn thay đổi, giữ gìn tính đa dạng sinh học trong địa bàn và xung quanh khu vực sản xuất chè là rất quan trọng, đặc biệt là những địa bàn được xác định có giá trị bảo tồn cao.

Cần có sự đa dạng về gen: Mỗi một khu vực trồng chè cần phải có vài giống cùng phát triển, tránh tình trạng giống độc tôn. Khi thay thế các vườn chè giống cũ cần giữ lại một số cây để bảo tồn (50-100 cây). Tiếp cận và đóng góp nhiều vào chương trình quỹ gen chè toàn quốc.

Đa dạng sinh học trong khu vực: Tăng cường bảo vệ môi trường xung quanh khu vực sản xuất chè với các loại đặc sản quan trọng, quí hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng của địa phương bằng cách tạo môi trường sống thích hợp và làm theo phương pháp truyền thống, tránh không để thuốc trừ sâu hại tới động thực vật trong khu vực.

Mọi quy hoạch mở rộng diện tích đất trồng chè đều cần có một sự đánh giá đầy đủ tác động của môi truờng sống và đưa ra các khuyến cáo về giải pháp kỹ thuật canh tác hợp lý, tuyệt đối không không nên mở rộng vào trong rừng nguyên sinh.

Khuyến khích việc giữ gìn những khu rừng bản địa, kể cả những khu rừng đã được chuyển đổi để gieo trồng và cải tạo cũng cần phải gieo trồng những loài cây bản địa trên theo tập quán của rừng tự nhiên.

Khuyến khích nhóm nông dân và những nông dân riêng lẻ trồng rừng, điều đó sẽ tạo ra khu bảo tồn thích ứng tính đa dạng của những loài cây bản địa trong vùng chè. Khuyến cáo mọi người dân không mua gỗ củi từ những người chặt  phá  rừng.

Cố gắng kết hợp các tiểu vùng thành một vùng rộng lớn để có thể xem như một khu vực của rừng hoặc phục vụ những mục đích tương tự, vấn đề này cần có sự giúp đỡ tích cực của nhân dân, sự quyết tâm của Nhà nước và doanh nghiệp.

8. Giá trị sản phẩm

Sản xuất chè bền vững phải mang lại lợi nhuận, tuy nhien để tăng sự cạnh tranh sản phẩm phải có chất lượng cao, giá thành hạ và ngày nay điều đặc biệt quan tâm của khách hàng là độ an toàn của sản phẩm, trách nhiệm đối với môi trường và xã hội.

Do vậy, sản xuất chè phải thực thực hiện một qui trình sản xuất tính toán đến độ an toàn, chất lượng và chi phí để tăng tối đa lợi nhuận:

Khi thu hái chè (bằng tay), hoặc bằng máy hoặc một nửa bằng máy có thể áp dụng đựng trong các giỏ hoặc sọt chắc, nhẹ, không có mùi lạ.

– Chè bỏ vào sọt không được lèn chặt, tránh làm dập nát chè.

– Chè tươi sau khi thu hái phải được đưa ngay về nơi chế biến (chậm nhất không quá 8 h).

– Chè đưa về xưởng phải được xác định hàm lượng nước và phân thành các loại A, B, C, D. Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 1053-86 để dễ bảo quản

– Ngoài phương pháp đánh giá chất lượng nguyên liệu chè theo hàm lượng bánh tẻ (phẩm cấp A, B, C, D) hiện nay nên bổ sung vào phương pháp đánh giá chất lượng nguyên liệu theo số lá non trên búp chè cụ thể như sau:

Nguyên liệu loại đặc biệt: Chỉ có 1 tôm

Nguyên liệu loại 1:               Gồm 1 tôm 1 lá non

Nguyên liệu loại 2:               Gồm 1 tôm 2 lá non

Nguyên liệu loại 3:               Gồm 1 tôm 3 lá non.và búp mù

   Với phương pháp này sẽ giải quyết được 2 vấn đề lớn như sau:

Thứ nhất: Ngày nay mặt hàng chè rất đa dạng khi thị trường yêu cầu chế biến loại sản phẩm nào (cao cấp, cấp thấp…) thì nơi thu mua nguyên liệu để chế biến dễ dàng đưa yêu cầu của mình đề người nông dân hái theo đúng phẩm cấp nguyên liệu.

               Thứ hai: Nông dân rất dễ nhận ra tiêu chuẩn mà người mua đặt ra có thể hái theo đúng được yêu cầu bởi tôm và lá rất cụ thể và xác định được ngay

Chè bảo quản tại chỗ để chờ chế biến cần được rũ tơi, rải đều trên nền sạch, nhẵn, chiều dày rải chè không quá 20cm, cách tường 20cm.

– Cố gắng rải riêng từng loại chè A,B và C,D giữa có khoảng trống làm lối đi lại, tránh dẫm đạp lên chè.

– Phòng bảo quản phải thoáng, mát, không bị mưa nắng hắt vào.

– Sau 2-3h bảo quản dùng sào tre hoặc dùng tay rũ nguyên liệu một lần, không dùng cào sắt để tránh làm dập nát chè.

– Chè vào dây chuyền sản xuất phải cân đối, nhịp nhàng không để ùn đống ở đầu dây chuyền.

– Nguyên liệu chè phải được chế biến với Qui trình công nghệ và thiết bị đạt trình độ tiên tiến và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

– Đối với sản xuất chè đen, nguyên liệu được đưa đến chế biến tại các nhà máy có thiết bị và công nghệ tiên tiến, đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm trong vùng.

Đối với sản suất chè xanh, thực hiện theo qui trình chế biến sau:

Nguyên liệu ® Héo nhẹ ® Diệt men ® Vò lần 1 ®Rũ tơi ® Vò lần 2 ® Sao lần 1 ® Cân bằng ẩm ® Sao lần 2 ® Cân bằng ẩm ® Sao lần 3 ® Phân loại ® (Đánh hương) ® Thành phẩm.

Phương pháp héo:

– Dàn héo: Khung dàn héo đóng bằng gỗ, mỗi dàn có 5 tầng, mỗi tầng xếp được 2 nong để rải chè lên trên.

– Nong rải chè: Nong đan bằng cật tre, đảm bảo khỏe, chắc, bề mặt nong nhẵn. Đường kính thích hợp của nong: 1,1 m.

Phương pháp diệt men:

Diệt men bằng phương pháp sao. Thiết bị diệt men thùng quay có gắn động cơ điện một chiều thông qua một bộ phận điều tốc. Bầu lò được thiết kế chụp hút và ống khói đảm bảo các điều kiện vệ sinh. Khói, bụi không nhiễm vào chè. Điều chỉnh nhiệt độ nhờ quạt lò.

– Kích thước thùng sao

+ Chiều dài thùng sao                   1000 mm

+ Đường kính đầu thùng sao         600 mm

+ Đường kính đuôi thùng sao        550 mm

+ Đường kính giữa thùng               800 mm

– Động cơ: loại một chiều, công suất 200 w

– Lượng chè diệt men: 1,4-1,6kg/mẻ

– Thời gian diệt men: 2,5-3 phút

– Nhiệt độ thùng sao: 250-2600C

– Tốc độ quay thùng sao: 40-45 vòng/phút

– Thủy phần chè sau diệt men: 60-62%

– Hoạt tính enzim: Triệt để

Phương pháp và thiết bị vò cải tiến

Chè diệt men được vò 2 lần bằng máy vò nhỏ và được rũ tơi sau mỗi lần vò.

Thiết bị vò là các loại 6CR30, 6CR40 của Trung Quốc hoặc VC-03 Sông Công – Thái Nguyên, được cải tiến hệ thống  nắp nén bằng cách dùng quả đối trọng trên cánh tay đòn gắn với nắp nén bằng khớp động, thay cho hệ thống trục vít – tay quay giúp cho thao tác ra, vào chè nhanh; Dễ điều chỉnh mức độ nén nhờ dịch chuyển vị trí quả đối trọng trên cánh tay đòn.

Mâm vò cũng được cải tiến bằng cách tăng số gân đồng gắn trên bề mặt mâm và được bố trí hướng tâm theo 2 vòng. Vòng trong 8 gân và vòng ngoài 16 gân. (Máy vò 6CR30 của Trung Quốc chỉ có một vòng với 10 gân). Việc tăng số gân trên bề mặt mâm vò thích hợp với nguyên liệu búp nhỏ của Tân Cương và có tác dụng làm tăng thêm mức độ làm xoăn chè vò.

Khung đỡ mâm vò được thiết kế hình vuông, một cạnh có bản lề, cạnh kia có thể nâng lên, hạ xuống nhờ cơ cấu chốt hãm, cần gạt và thanh đỡ bên dưới giúp cho việc ra chè nhanh và dễ vệ sinh bề mặt mâm vò.

Tốc độ vòng quay thùng vò: 55-60 v/ph.

Lượng chè vò thích hợp: Với máy kiểu 6CR30 hoặc VC-03: 3,5-3,8 kg chè diệt men/mẻ vò tương ứng 6-7kg chè tươi/mẻ.

Với máy vò kiểu 6CR40: 5-6,6 kg chè diệt men/mẻ vò tương ứng 9-12 kg chè tươi/mẻ.

Thời gian vò mỗi mẻ: 10-12 phút.

Phương pháp làm khô: Làm khô theo phương pháp sao 3 lần. Giữa mỗi lần sao có tách bồm, vụn và để cân bằng ẩm. Thiết bị sao khô có cấu tạo tương tự thiết bị diệt men.

Phân loại: Chủ yếu là loại bỏ bồm, vụn bằng sàng và nhặt tay.

Đánh hương: Bằng phương pháp sao bằng thiết bị sao thùng quay.

 

– Hệ thống nhà máy cần phải đảm bảo để chè đạt chất lượng cao, loại bỏ phần chất lượng kém, hoặc phẩm cấp xấu trong suốt thời gian sản xuất

– Tất cả sản phẩm chè đưa ra thị trường cần phải giới hạn tiêu chuẩn về ký sinh trùng và sự nhiềm bẩn (ô nhiễm), kim loại nặng, những xác chết và các chất có khả năng gây hại cho người tiêu dùng.

– Tăng cường phát triển sản phẩm chè an toàn, chất lượng cao, đặc biệt là ở các siêu thị .

9. Năng lượng trong s¶n xuÊt

Khuyến khích sử dụng các vật liệu có khả năng tái sản xuất được, giảm thiểu sử dụng nhiên liệu gây ô nhiễm. Hiệu quả của việc sử dụng nguyên liệu có khả năng tái sản xuất là:

– Sử dụng củi trong chế biến để giảm nhiên liệu gar, xăng, dầu…tuy nhiên cần chú ý nguồn gốc của củi, không được khai thác bừa bãi;

– Chú trọng sử dụng nhiên liệu sinh học là nguồn bổ sung;

– Chú ý phát triển hệ thống thuỷ điện, sức gió nếu có khả năng:

– Đổi mới thiết bị máy móc chế bién để tiết kiệm nguyên liệu;

– Các hộ nông dân cần hợp tác với nhau để phát triển trồng cây lấy gỗ, phải lên kế hoạch và bắt buộc những người chủ đất thực hiện. Giới hạn với các loại cây lấy gỗ phù hợp, loại bỏ những giống có nguồn gốc từ rừng bản địa.

– Hạn chế sử dụng than trong chế biến;

– Th­êng xuyªn theo dõi lượng nguyên liệu nạp vào và đo tất cả các lối ra của năng lượng để giảm tối thiểu việc sử dụng không đúng và sự hao hụt nguồn năng.

– Những cây chè đốn cần phải cần phải để tủ gốc cho chèkhông bao giờ được sử dụng làm năng lượng.

10. Nguồn nước

Nước tưới

– Sử dụng tưới nước nhỏ giọt tốt hơn là dùng bình để tưới (tiết kiệm hơn);

– Không sử dụng nước từ những vùng sản xuất công nghiệp, nước thải nhà máy vì nó có thể  đem lại các chất độc  hại  hoặc gây ô nhiễm.

– Chỉ nên áp dụng tưới ở những nơi mà ở đó có nguồn nước dư  thừa, đầu tư cho tưới thấp và sản xuất chè có hiệu quả cao.

– Cần phải có nhà máy xử lý nước, không để nước thải trực tiếp của các nhà máy chảy vào các dòng sông hay kênh suối.

– Cần cung cấp thiết bị tốt nhất cho việc thực hiện xử lý nước cung cấp cho cộng đồng.

– Luôn chú trọng xây dựng và bảo trì các đập nước và hệ thống dẫn nước.

– Xây dựng nhà với kiểu mái lợp thích hợp để có thể thu giữ nước mưa vào trong các thùng chưa sử dụng để phục vụ cho nội bộ gia đình.

11. Quan hÖ x· héi vµ quan t©m ®êi sèng con ng­êi

Mối quan hệ tốt với người lao động, nhân dân địa phương, khách hàng và nhà qu¶n lý là điều rất quan trọng đối với sự thành công của bất kỳ doanh nghiệp nào. Những con người khoẻ mạnh có giáo dục là là tài sản quí cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp.

*Những mối quan hệ.

– Quản lý kinh doanh phải luôn tính đến tỷ lệ giữa những người lao động thường xuyên (dài hạn) và lao động theo mùa vụ để bảo đảm duy trì những công việc chính và tiết kiệm đầu vào.

– Giải quyết các thắc mắc của người lao động phải thật rõ ràng, có tình có lý để người lao động tin tưởng, an tâm làm việc.

– Mỗi chủ thể phải là một khách hàng tốt, một nhà cung cấp tốt trong hoạt động kinh doanh.

– Người nông dân sản xuất cần xây dựng nhóm trong chuyên chở vật tư như là phân bón hoặc trang thiết bị sản xuất để giảm chi phí.

– Hình thành những nhóm nông dân để chia sẻ thông tin, kỹ thuật mới và những lợi ích về sức khoẻ và vận động phát triển cơ sở hạ tầng.

– Doanh nghiệp cần duy trì mối quan hệ tốt với chính quyền địa phương và các tổ chức cộng đồng khác trong địa phương để thuận lợi cho các hoạt động chung .

– Cần tăng cường tiếp thị hình ảnh của công ty trong mắt của những khách hàng thứ 3 để làm mạnh thêm mối quan hệ của tổ chức với cộng đồng.

Chăm lo sức khoẻ,nâng cao dân chí cộng đồng

– Chắc chắn rằng mỗi người lao động và gia đình họ đều có nhu cầu tìm hiểu về những phương tiện giáo dục và y tế, cần khuyến khích các chương trình xã hội mà đặc biệt là tăng cường về sức khoẻ và giáo dục văn hoá, cung cấp nước sạch, những chương trình tiêm chủng, thông tin về dinh dưỡng, ý thức về căn bệnh HIV, giúp đỡ những gia đình khó khăn, lợi ích của những gia đình nhỏ

– tấp huấn cung cấp những cơ hội cho nông dân và những nhóm người công nhân là chìa khoá dẫn  tới thành công của mỗi doanh nghiệp chè.

     

TS. Nguyễn Văn Toàn

Bài viết liên quan